Banner trang chủ

Bảo tồn và phát triển hệ sinh thái vùng biển đảo Trường Sa

05/06/2014

     Quần đảo Trường Sa gồm trên 100 đảo lớn nhỏ và rạn san hô, với diện tích vùng biển rộng khoảng 410.000 km2, được chia thành 8 cụm (Song Tử, Loại Ta, Thị Tứ, Nam Yết, Sinh Tồn, Trường Sa, Thám Hiểm, Bình Nguyên). Do sở hữu hàng trăm rạn san hô rải rác khắp một vùng biển rộng lớn và hàng trăm loài rong biển nên quần đảo Trường Sa là nơi có tính đa dạng sinh học cao. Các rạn san hô nơi đây không chỉ là nơi cư ngụ lý tưởng cho các sinh vật biển mà còn là nơi nuôi dưỡng nguồn lợi thủy sản dồi dào cho toàn vùng biển Đông.

 

     Đa dạng san hô biển Trường Sa

     Vùng biển Trường Sa có khoảng 382 loài san hô cứng thuộc 70 giống, 15 họ đã được tìm thấy, đây là nơi có số loài san hô khá cao, ngang bằng với số lượng loài phát hiện được trên toàn dải ven biển Việt Nam và bằng khoảng 1/2 số loài san hô trên toàn thế giới. Trong thành phần khu hệ san hô ở quần đảo Trường Sa có giống Acropora thuộc họ Acroporidae luôn có số loài nhiều nhất và phổ biến nhất ở tất cả các đới. Nhiều nghiên cứu cũng đã chứng minh được khu hệ san hô ở Trường Sa có nhiều nét tương đồng với khu hệ san hô ở vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương. Có nhà nghiên cứu nước ngoài đã ví san hô biển Trường Sa giống như một khu rừng rậm nhiệt đới.

     Vẻ đẹp của Trường Sa ít được biết tới bởi vẻ đẹp ấy chìm sâu dưới làn nước xanh trong, chứa đựng một hệ sinh thái nguyên sơ với hàng nghìn động, thực vật biển quý hiếm. Trường Sa là quần đảo san hô chính bởi cấu trúc hình thành và phát triển của các đảo. Các nhà nghiên cứu biển Việt Nam và quốc tế đã chỉ ra rằng, trong quá trình sinh tồn và phát triển hàng triệu năm, các rạn san hô đã tích tụ một lượng khổng lồ cacbonnat canxi, từ đó tạo nên sự hình thành của các đảo và tiếp tục bồi đắp cho các đảo ngày một cao hơn và mở rộng hơn. Với giới hạn phân bộ ở độ sâu từ 30 - 40 m dưới mực nước biển, các rạn san hô này là yếu tố quan trọng tạo nên sự đa dạng và nguồn lợi hải sản cho các đảo, đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành tiếp nối của các đảo trong tương lai.

 

Hệ sinh thái san hô biển Trường Sa

 

     Hệ sinh thái san hô biển Trường Sa đều có nguồn gốc từ sinh vật mà quan trọng nhất là đá san hô với độ dày trên 20m và đến nay lớp phủ này vẫn ngày càng dày thêm nhờ sự phát triển hàng nghìn ha rạn san hô bao phủ bên ngoài. Đồng thời, đây là khu vực có các rạn san hô dạng vòng (atoll rif) rất đặc trưng mà vùng biển ven bờ không có. San hô ở đây rất phát triển do môi trường nước trong sạch, chất đáy phù hợp, nhiệt độ ổn định. Trải qua hàng nghìn năm san hô đã bồi đắp cho đảo ngày càng mở rộng diện tích và nhô dần lên khỏi mặt biển.

     Sự phân bố mật độ san hô trong khu vực quần đảo được chia thành ba đới được quy định bởi độ sâu và những khác biệt trong sự hiện diện của các chủng, loài san hô . Đới mặt bằng rạn có độ che phủ trải rộng từ 500 m đến trên 1.000 m. San hô sinh sống tại đới này chủ yếu là dạng khối hoặc cành ngắn, bám chắc vào nền đáy để không bị những cơn sóng lớn cuốn trôi. Đới sườn dốc, nằm ở độ sâu dưới 20m. Ở đới này, độ phủ của san hô khá rộng, phát triển tốt và phong phú về chủng loài như san hô cành, san hô xanh, san hô sừng. Đới chân rạn là vùng nước sâu từ 40 - 50 m, nước biển sạch là điều kiện lý tưởng để san hô phát triển, với 2.397 loài sinh vật (trong đó có 364 loài san hô, 739 sinh vật đáy và gần 600 loài cá) sống ở khu vực các vùng nước quanh đảo, nhiều loại có tên trong sách Đỏ thế giới. Sự sống dưới biển Trường Sa lúc nào cũng nhộn nhịp với những vũ điệu không ngừng nghỉ theo thủy triều của họ hàng nhà san hô mềm, sự hoạt bát, linh lợi của những chú cá thia, cá đuôi gai, cá bướm...đầy màu sắc.

     Trong các đảo lớn của quần đảo Trường Sa, có đảo Nam Yết với một vành đai san hô bao quanh dài trên 3 km, rộng khoảng 250 km2 theo hình thái rạn san hô viền bờ giống như các đảo khác. Tuy vậy, phần dưới biển phía Nam đảo là những vách đá dựng đứng với nhiều loại san hô bám độc đáo. Hòn đảo này cũng được đánh giá là nơi phong phú nhất về thành phần loài san hô và xuất hiện cả san hô đỏ vô cùng quý hiếm. Đảo cũng sở hữu 166 loài cá, nhiều loại cá có giá trị kinh tế cao như cá mú, hồng, hè, bò... Hệ sinh thái rạn san hô ở Nam Yết đạt bậc 4 theo chuẩn thế giới, nghĩa là thuộc loại tốt.

 

San hô cành đặc trưng tại biển Trường Sa (Pocillopora damicornis)

 

     Ngoài ra, đảo Thuyền Chài là một quần thể san hô thuộc hình thái rạn vòng atoll, bao quanh một vụng nước ở giữa. Đây là một hình thái tương đối hiếm trên thế giới và độ phủ của 299 loài san hô cũng đạt cao nhất trong các đảo.

     Khai thác hiệu quả nguồn rong biển Trường Sa

     Nghiên cứu mới công bố của các nhà khoa học ở Viện TN&MT biển cho thấy, quanh quần đảo Trường Sa có hàng trăm loài rong biển, trong đó không dưới 60 loài có giá trị dinh dưỡng và kinh tế cao.

     Rong biển ở quần đảo Trường Sa có sự phân bố đa dạng và không đồng đều. Tại 10 đảo thuộc quần đảo Trường Sa (Trường Sa lớn, Nam Yết, Sơn Ca, Song Tử Tây, Phan Vinh, Tốc Tan, Thuyền Chài, Đá Tây, Sinh Tồn và Đá Nam), các nhà khoa học đã xác định được 255 loài rong biển thuộc bốn ngành.

     Số lượng loài tại các đảo dao động từ 17 loài (đảo Phan Vinh) đến 127 loài (đảo Đá Tây) và trung bình 72,9 loài. Nguyên nhân chính của mật độ phân bố chênh lệch này là do sự khác nhau về vị trí địa lý giữa các đảo, tác động của con người và thiên nhiên.

     Trong số hàng trăm loài, bước đầu, các nhà khoa học xác định 62 loài rong có giá trị kinh tế, trong đó, một số loài có trữ lượng tự nhiên tức thời như rong mơ (34 tấn), rong câu (9 tấn), rong guột (10 tấn), rong quạt (5 tấn), rong gai (9 tấn), rong đông (13 tấn), rong mào gà (15 tấn), rong sụn (30 tấn) và rong loa kèn (20 tấn).

     Căn cứ giá trị sử dụng của từng loài, các nhà khoa học đã phân loại rong biển tại quần đảo Trường Sa thành 6 nhóm làm nguyên liệu chế biến cụ thể như nhóm làm nguyên liệu chế biến kẹo Carrageenan, nhóm làm nguyên liệu chế biến thạch (agar), dược liệu, thực phẩm, phân bón và rau xanh.

     Với nguồn lợi trên, “rong biển tại quần đảo Trường Sa trở thành một nguồn tài nguyên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn”, góp phần bổ sung tài liệu về nguồn lợi rong biển trong nước mà còn giúp cơ quan quản lý tại quần đảo Trường Sa có thể định hướng khai thác nguồn tài nguyên quý giá này một cách hợp lý và có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của các vùng hải đảo.

     Đề xuất các giải pháp bảo vệ TN&MT biển đảo Trường Sa

    Hiện nay hoạt động khai thác san hô trái phép đã làm suy giảm các loài san hô. Điển hình là việc một số ngư dân dùng phương tiện “đánh” cả tảng san hô, chuyển lên tàu mang vào đất liền làm “cây cảnh”, “san hô bộ”. Có trường hợp còn dùng thuốc nổ để đánh bắt cá, gây hủy hoại môi trường sinh thái. Việc đổ các chất thải, rác thải trực tiếp xuống biển cũng là những nguy cơ lâu dài gây ô nhiễm môi trường. Để bảo vệ các rạn san hô cần xem xét thiết lập các khu bảo tồn biển tại các khu vực Nam Yết, Thuyền Chài y sản, cảnh quan, du lịch vùng biển xa bờ của Việt Nam được thuận lợi và cũng tạo ra cơ hội hợp tác quốc tế về bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn và giám sát san hô.

 

Thu mẫu rong biển dài trên vùng dưới triều ở đảo Sinh Tồn Đông

 

     Cần tổ chức nghiên cứu và xây dựng hồ sơ trình UNESCO công nhận vùng biển Trường Sa là di sản thiên nhiên thế giới về đa dạng san hô. Năm 2006, các nhà khoa học - nghiên cứu về di sản thiên nhiên đã đưa vùng biển - đảo Trường Sa vào danh mục tiềm năng di sản thiên nhiên biển số 1 của UNESCO.

     Thiết lập kho tài liệu, cơ sở dữ liệu tổng hợp về TN&MT và cảnh quan du lịch giúp quảng bá rộng trong và ngoài nước, xây dựng các chương trình kế hoạch nghiên cứu TN&MT biển - đảo Trường Sa, du lịch biển Trường Sa.

     Cần lượng giá TN&MT từng đảo, vùng biển đảo và toàn khu vực nhằm xây dựng Chiến lược bảo vệ thiên nhiên môi trường vùng biển - đảo Trường Sa; Đánh giá cảnh quan các bãi tắm biển, các tiềm năng du lịch, nguồn lợi rong biển, san hô tại các đảo Trường Sa.

     Nhà nước cần ban hành chính sách, cơ chế đa phương, song phương phối hợp cùng các quốc gia liên quan trong việc nghiên cứu, bảo vệ, quản lý TN&MT biển đảo Trường Sa.

 

 

Dư Văn Toán

Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam

Nguồn: Tạp chí Môi trường, số 5/2014

 

Ý kiến của bạn